Câu Hỏi Và Các Dạng Đề Bài Mùa Xuân Nho Nhỏ (Thanh Hải) – Lớp 9 ôn thi học kỳ, chuyên đề ôn thi học sinh giỏi văn lớp 9 và tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn văn.
Câu Hỏi Và Các Dạng Đề Bài Mùa Xuân Nho Nhỏ – Lớp 9
Nội Dung
* Đề 1: Cảm nhận của em về hai đoạn thơ sau:
a) Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
(Trích Viếng lăng Bác – Viễn Phương)
b) Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
(Trích Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải)
Gợi ý đáp án
I- Yêu cầu về kĩ năng:
– Học sinh biết vận dụng các thao tác phân tích, so sánh, tổng hợp; kĩ năng phân tích thơ để làm rõ vẻ đẹp nội dung, nghệ thuật của hai đoạn thơ trữ tình.
– Trên cơ sở những hiểu biết về nhà thơ Viễn Phương và Thanh Hải, hoàn cảnh ra đời, chủ đề hai bài thơ để phân tích những nét đặc sắc về nội dung, hình thức nghệ thuật của hai đoạn thơ: dụng ý khác nhau trong việc sử dụng những biện pháp nghệ thuật tương đồng như điệp ngữ, hình ảnh ẩn dụ …
– Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, lời văn giàu cảm xúc, không mắc lỗi dùng từ, diễn đạt…
II- Yêu cầu về kiến thức:
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Mở bài: Giới thiệu chung về hai nhà thơ Viễn Phương và Thanh Hải, khái quát về hai tác phẩm và đoạn trích.
- Thân bài:
2.1. Sự tương đồng:
+ Hai đoạn thơ đều thể hiện ước nguyện giản dị, thành kính và khát vọng được hóa thân vào thiên nhiên vĩnh hằng của đất nước; cống hiến phần tốt đẹp- dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung.
+ Giọng điệu vừa trang nghiêm, sâu lắng vừa tha thiết trong sáng; sử dụng những hình ảnh thơ giàu ý nghĩa …
2.2 Điểm khác biệt:
- a) Đoạn thơ trong Viếng lăng Bác:
– Nội dung:
+ Lần đầu ra lăng viếng Bác, khi phải rời xa người con miền Nam thương trào nước mắt, nhớ Bác khôn nguôi. Nhà thơ ước mong được hóa thân vào thiên nhiên để được ở bên Bác, canh giấc ngủ cho Người.
+ Tác giả muốn làm con chim, đóa hoa, cây tre – những sự vật bình thường nhưng gần gũi, thân thương để được ở bên Bác, được sống trong tình yêu thương của Bác.
+ Những rung động thành kính, thiêng liêng và ước nguyện chân thành, thiết tha được ở bên Bác của Viễn Phương. Qua đó, người đọc thấy được lòng trung kiên của người dân Việt Nam đối với vị cha già kính yêu của dân tộc.
– Nghệ thuật:
+ Điệp ngữ “muốn làm” biểu hiện khao khát cháy bỏng của nhà thơ.
+ Giọng thơ trầm lắng, thiết tha…
+ Hình ảnh ẩn dụ thể hiện khát vọng hóa thân vào thiên nhiên vĩnh hằng…
b) Đoạn thơ trong Mùa xuân nho nhỏ:
– Nội dung:
+ Trước mùa xuân của đất trời, nhà thơ dù đang nằm trên giường bệnh nhưng đã có những rung động sâu sắc và ước nguyện khiêm nhường rất đáng trân trọng: muốn làm con chim hót, một cành hoa, một nốt trầm. Đó là “mùa xuân nho nhỏ” của đời mình mà nhà thơ muốn dâng hiến cho đời, cho đất nước.
+ Mùa xuân còn có ý nghĩa biểu tượng cho những gì tươi đẹp nhất của sự sống và cuộc đời mỗi người. Mùa xuân nho nhỏ mà nhà thơ muốn dâng hiến đã góp phần làm nên mùa xuân của cuộc đời, của đất nước.
+ Sự cống hiến ấy lặng thầm nhưng bền bỉ: Dù là tuổi hai mươ – Dù là khi tóc bạc.
+ Tác giả bộc lộ quan niệm của mình về sự hòa nhập giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng.
– Nghệ thuật:
+ Thể thơ năm chữ phù hợp với cảm xúc thiết tha, âm hưởng nhẹ nhàng sâu lắng như làn điệu dân ca xứ Huế.
+ Hình ảnh thơ đẹp giàu ý nghĩa biểu trưng cành hoa, mùa xuân…
+ Điệp ngữ “ta làm” diễn tả khát vọng chân thành của nhà thơ; lời thơ như ngân lên thành lời ca trong sáng.
2.3 Bàn luận đánh giá:
Hai đoạn thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn giản dị mà cao cả: đẹp ở sự hóa thân kì diệu vào thiên nhiên vĩnh hằng; ở khát vọng được dâng hiến tự nguyện và thành kính và trong mối liên hệ sâu sắc giàu ý nghĩa mà hai nhà thơ hướng tới: lãnh tụ, đất nước, cuộc đời.
- Kết bài:
– Ước nguyện của hai nhà thơ góp phần làm cho cuộc đời tươi đẹp hơn. Vì thế những dòng thơ đã mang đến cho người đọc niềm xúc động sâu sắc.
– Cuộc đời sẽ ý nghĩa hơn khi mỗi chúng ta có được nhận thức đúng đắn và lẽ sống cao cả.
* Đề 2: Có ý kiến cho rằng: “Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là tiếng lòng thể hiện tình yêu và khát vọng được cống hiến cho đời của nhà thơ Thanh Hải”
Em hãy chứng minh ý kiến trên qua việc phân tích hai khổ thơ:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
( Thanh Hải , Mùa xuân nho nhỏ )
Gợi ý đáp án
Phân tích đoạn thơ trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải ( 6 điểm )
A/ Yêu cầu chung :
– Đề yêu cầu nghị luận một đoạn trong bài “ Mùa xuân nho nhỏ “ của Thanh Hải .
– Nên trong bài viết chú ý nêu được các ý kiến đánh giá và cảm thụ về nội dung, nghệ thuật đoạn thơ :
Đó là khát vọng sống đẹp đẽ,dâng hiến cho đời.Từ đó mở ra những suy nghĩ về ý nghĩa, giá trị của cuộc sống của mỗi cá nhân sống có ích, có cống hiến cho cuộc đời chung.
– Đặc điểm nghệ thuật : Khát vọng sống hòa nhập, cống hiến được thể hiện một cách tự nhiên, giản dị đẹp đẽ giàu hình ảnh cách cấu tứ lặp từ,đối ứng chặt chẽ.
B/ Yêu cầu cụ thể :
1/ Mở bài : Giới thiệu tác giả, tác phẩm, trích dẫn ý kiến nhận định và nêu giới hạn phân tích.
2/ Thân bài : Phân tích, chứng minh các luận điểm về nội dung, nghệ thuật .
– Đó là khát vọng được hòa nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến cả cuộc đời, cả phần tốt đẹp dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung cho đất nước.
– Tâm niệm đó thể hiện một cách chân thành, tự nhiên, giản dị bằng những hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ
– Tác giả muốn hóa thân vào những hình ảnh thiên nhiên để nói lên nguyện ước của mình “Ta làm “ , “ Con chim hót, cành hoa”, “ Ta nhập vào hòa ca “, “ Nốt trầm xao xuyến”
– Bằng giọng tâm sự nhỏ nhẹ, sâu lắng, ước nguyện của Thanh Hải đã đi vào lòng người đọc, đó là ước nguyện cống hiến là lẽ sống tốt đẹp của con người đối với đất nước, thể hiện một cách tha thiết, giản dị, nhỏ nhẹ khiêm nhường qua cách nói ẩn dụ .
– Được dâng hiến cả sức sống tươi trẻ cho đất nước nhưng tác giả coi đó là một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn vào cuộc đời chung bằng thái độ âm thầm, giản dị.
III/ Kết bài : Đoạn thơ thể hiện một quan niệm sống đẹp, có ích đáng để thế hệ trẻ suy ngẫm; có thể liên hệ tác phẩm khác có cùng chủ đề ( Lặng lẽ Sa Pa )
* Đề 3: Bài thơ Mùa xuân nho … mùa xuân lớn của cuộc đời. Hãy phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải để làm sáng tỏ nhận xét trên
Bài tham khảo
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải đã, đang và sẽ trở thành bản nhạc lĩnh xướng cho dàn hòa ca đóng góp và dựng xây đất nước của toàn dân tộc.
Nếu phải chọn ra ý nghĩa nhân văn nhất của thơ ca trong đời sống thì đó là việc thơ ca đã cống hiến cho cuộc đời này những tiếng lòng đẹp đẽ, những mảng sáng cao thượng trong tâm hồn của các thi nhân. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải xứng đáng mang ý nghĩa cao đẹp ấy. Sách Bồi dưỡng Ngữ văn 9 (Nhà xuất bản Giáo dục, 2008) có viết: “Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của cuộc đời.”
Bài thơ ra đời năm 1980. Đó là một thời điểm vô cùng nhạy cảm. Khi đó, Thanh Hải đang nằm viện để điều trị một căn bệnh hiểm nghèo và không lâu sau khi sáng tác bài thơ này nhà thơ đã vĩnh viễn lìa bỏ những mùa xuân khác nữa của cuộc đời mình. Năm 1980 cũng là năm đất nước đang gặp nhiều khó khăn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Trong hoàn cảnh ấy, bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải ra đời đã thể hiện cảm hứng đón nhận thanh sắc, đất trời mùa xuân, cảm nhận đầy tự hào về bước đi lên thanh xuân của đất nước và đồng thời nó cũng là một tâm nguyện dâng hiến sức xuân trong cuộc sống cách mạng của đất nước. “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng thơ đầy cảm động của nhà thơ.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế tươi mát đẹp đẽ.
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Chỉ bằng một vài nét phác hoạ bức tranh mùa xuân quê hương đã hiện lên với một khoảng không gian khoáng đạt, cao rộng, êm dịu và đầy chất thơ. Bức tranh ấy được mở ra bằng chiều dài của dòng sông, chiều cao cùa bầu trời và chiều sâu của cảm xúc. Bức tranh là một sự pha trộn đặc biệt của màu sắc. Nó có sắc xanh thanh xuân của dòng sông – đó có lẽ là sắc xanh của những vạt lục bình lững lờ trôi trên dòng Hương Giang – nổi bật trên cái nền ấy là màu tím biếc của một bông hoa mùa xuân. Bằng việc sử dụng phép đảo ngữ, đưa từ “mọc” lên đầu câu cùng với việc sử dụng lượng từ “một” tác giả đã nhấn mạnh sự xuất hiện đột ngột, bất ngờ cùng với sức sống mạnh mẽ căng tràn cùa sức xuân thể hiện qua hình ảnh bông hoa.
Hơn thế, bức tranh mùa xuân còn ghi vào lòng người những âm thanh lảnh lót của con chim chiền chiện, khiến cho niềm xúc động bồi hồi, xốn xang chợt bật thành tiếng hỏi:
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Bằng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác, trước mùa xuân tình cảm của tác giả thật mãnh liệt. Ông dang rộng vòng tay, mở rộng tấm lòng, trân trọng, nâng niu đón nhận mùa xuân. Tiếng chim vang ra mà không tan biến, nó tuôn ra thành tiếng rõ ràng, tròn trịa kết tinh thành từng giọt, kết lại thành dấu ấn mùa xuân để nhà thơ “hứng” với đôi bàn tay trân trọng và tấm lòng rộng mở. Cả đoạn trên đã không chỉ lột tả được vẻ đẹp cùa thiên nhiên mùa xuân mà còn diễn tả được sự say đắm, ngỡ ngàng và thái độ đón nhận trân trọng, nâng niu của tác giả.
Sau những cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, khổ thơ thứ hai là những cảm nhận thật hơn về sức xuân nảy nở nơi những con người chiến đấu và lao động để bảo vệ và dựng xây đất nước:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Việc lặp lại cặp cấu trúc sánh đôi cùng điệp ngữ “mùa xuân” đã gợi ra những hình ảnh về đoàn quân cầm súng và đoàn người ra đồng. Cành lá ngụy trang trên lưng người ra đồng, dẫu là cành nhưng trước sức xuân nhiệm màu vẫn đâm chồi nảy lộc. Những cây mạ non vừa được gieo xuống trong khí xuân, chẳng đợi thời gian đâm chồi đã “trải dài nương mạ”. Dùng từ “lộc” để diễn tả sức xuân nảy nở mãnh liệt đang trào dâng của thiên nhiên đất trời, tác giả đồng thời còn thể hiện sức xuân của con người. Những con người cầm súng, truyền sức xuân cho cành lá ngụy trang trên lưng nảy lộc, những người ra đồng gieo mạ xuống đất hay là đang gieo xuống những mùa xuân.
Những người chiến sĩ, những người nông dân. Họ đã mang cả mùa xuân, sức xuân ra đồng, ra chiến trường và hơn thế nữa, họ đang mang cả mùa xuân về cho đất nước. Từ hình ảnh của hai lớp người này tác giả đã đi tới một khái quát cao hơn đối với “tất cả”:
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Cả dân tộc đang hứng sức sống mới trước mùa xuân nhiệm màu. Tất cả đang vội vã, khẩn trương trong công việc để cống hiến, xây dựng đất nước. Và thêm nữa từ “xôn xao” như diễn đạt một sự thay đổi, một sự biến chuyển trong tâm hồn mỗi con người trước mùa xuân. Tất cả mọi người đang đóng góp những mùa xuân nhỏ bé của mình cho mùa xuân của đất nước:
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
Mùa xuân của đất nước được cảm nhận trong sự tổng kết chiều dài lịch sử bốn nghìn năm với bao vất vả, gian lao và đất nước được so sánh với vì sao, nguồn sáng kỳ diệu của thiên hà, vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên vũ trụ. Đất nước ấy như một bà mẹ tảo tần, vất vả, qua bao gian lao thử thách vẫn kiêu hãnh, ngoan cường “cứ đi lên phía trước” không chỉ bằng sức mạnh của hôm nay mà bằng sức mạnh của bốn nghìn năm lịch sử. Câu thơ như là một điểm nhấn, lời tổng kết về sức sống mãnh liệt của đất nước đồng thời ẩn chứa niềm tự hào, niềm tin của tác giả vào cuộc đời và đất nước.
Khổ thơ 4, 5 là hai khổ thơ bộc lộ rõ nhất chủ đề của bài thơ đó là ước nguyện thiết tha muốn hoà đồng cùng mùa xuân đất nước, ước nguyện dâng hiến tài sức cho đời. Và trước tiên, ước nguyện của nhà thơ là ước nguyện muốn hoà đồng cùng thiên nhiên đất nước:
Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Ở khổ thơ này có sự lặp lại hình ảnh bông hoa, con chim, những tín hiệu mùa xuân ở khổ thứ nhất. Trong muôn ngàn điều ước, tác giả chỉ ước làm một tiếng chim trong muôn ngàn giọng hót để gọi xuân về, một bông hoa trong muôn triệu đoá hoa để tô điểm cho mùa xuân, một nốt trầm trong bản hoà ca êm ái. Những ước muốn giản dị để thành những vật nhỏ bé, nhưng chính những vật nhỏ bé này lại góp phần quan trọng không thể thiếu để tạo nên mùa xuân, tạo nên sắc xuân. Như nhà thơ Trần Hòa Bình từng chiêm nghiệm:
Thêm một chiếc lá rụng
Thế là thành mùa thu
Thêm một tiếng chim gù
Thành ban mai thanh khiết
Vậy thì, một tiếng hót, một nhành hoa, một nốt trầm mà Thanh Hải nguyện dâng hiến cho đời hẳn có ý nghĩa lớn lao vô cùng. Huống chi, tác giả muôn làm một nốt trầm nhưng là nốt trầm xao xuyến, có sức ngân vang, một nốt trầm có ích cho đời. Những ước muốn tưởng như giản dị ấy lại có một ý nghĩa lớn lao đó là phải đóng góp những gì tươi đẹp nhất cho cuộc đời, cho đất nước, dù đó là sự cống hiến khiêm nhường, giản dị. Điều đó không chỉ ước muốn của riêng tác giả mà là của tất cả mọi người, tất cả chúng ta. Thông qua việc chuyển đổi đại từ “tôi” sang “ta”, nguyện ước riêng đã trở thành nguyện ước chung. Sau ước nguyện hoà đồng, tác giả đã đi tới khát vọng cống hiến bền bỉ của mình:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Khổ thơ như là một lời nhắn nhủ, một lẽ sống, sống là để cống hiến. “Mùa xuân nho nhỏ” còn là quan điểm đúng đắn về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa mỗi con người giữa cuộc đời chung của dân tộc. Thanh Hải đã chọn cho mình một cách cống hiến riêng không phô trương, không ồn ào, cống hiến một cách âm thầm lặng lẽ trong mọi hoàn cảnh, mọi lứa tuổi. Khổ thơ là một sự tổng kết, chiêm nghiệm từ chính cuộc đời đã cố gắng không biết mệt mỏi từ tuổi 20 căng tràn sức sống đến khi phải nằm trên giường bệnh của nhà thơ. Là lời cho riêng mình, đoạn thơ bỏ trống cách xưng hô nhưng điều đó lại như mở rộng tới mọi người, lay động người đọc cùng chung ý nghĩ.
Nếu những khổ thơ trên là những suy ngầm cảm động về ước nguyện dâng hiến thì khổ thơ cuối nhà thơ lại muốn được cất lên tiếng hát thiết tha dựa trên lời ca buồn bã của câu Nam ai Nam bình xứ Huế:
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
* Đề 4: Cảm nhận và suy ngẫm của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải.
Bài viết tham khảo
Với Thanh Hải, không ai đoán trước được bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của ông sẽ tồn tại bao lâu nhưng ít ra trước khi ra đi, ông đã để lại cho độc giả một bài thơ yêu đời, hồn nhiên đến lạ và giữ lại trong ông một phong cách thơ bình dị, chân thành.
Thế là bất ngờ xuân tới, nồng nàn, ngất ngây mà dịu dàng, thướt tha quá đỗi. Mùa xuân khác cho mọi vật chiếc áo xanh tươi mơn mởn, điểm những màu hoa trắng hồng trên nền áo nguyên sơ. Xuân về xua tan bao giá băng lạnh lẽo, cho vạn vật hồi sinh tràn dầy sức sống. Xuân sưởi ấm lòng người, thắp cho nhân sinh niềm hi vọng ở ngày mai.
Có lẽ vì thế xuân luôn là đề tài cho thi nhân rung động được cảnh: cảnh thiên nhiên, cảnh đời mà cất bút đề thơ – xuân hà hơi, tiếp sức cho thi sĩ hóa thân vào cuộc đời. Ở nhà thơ Thanh Hải – xuân đáng trân trọng làm sao. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của ông là một ví dụ. Thật ra, xuân đối với Thanh Hải không hề nho nhỏ mà xuân đang mang trong mình hơi ấm của sự sống Xuân lung linh, đầy sắc màu của tình yêu, yêu đời, yêu người tha thiết.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã miêu tả đặc trưng của mùa xuân, chỉ có mùa xuân mới có cảnh vật ngạt ngào như thế:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Dòng sông xanh là một dòng sông thanh bình yên ả – đó là tín hiệu báo mùa xuân dần về sắc tím biếc của bông hoa nổi trội, đậm đà, nồng ấm cả dòng sông xanh – xuân là thế, dịu dàng mà nồng đượm sắc hương. Bông hoa là có thật, hay chỉ là dáng hình của niềm tin? Niềm hi vọng là sắc màu tím biếc thân quen của quê hương mà mãi in đậm trong tâm tưởng nhà thơ thấp thoáng trong câu thơ màu tím của chiếc áo dài nữ sinh xứ Huế từng là ấn tượng khó phai của người dân Cố đô. Mùa xuân ở đây thật hào phóng nên sẵn sàng trao tặng cho ai biết trải rộng lòng mình:
Ơi con chim chiền chiện
Hót chì mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng…
Tiếng gọi ơi nghe sôi nổi và tha thiết biết bao. Nhà thơ đã đón nhận mùa xuân với tất cả sự thăng hoa của tâm hồn, điêu luyện trong ngòi bút. Câu thơ cứ như câu nói tự nhiên không trau chuốt từ ngữ nhưng vẫn mang âm hưởng thi ca. Câu hỏi tu từ hót chỉ thể hiện tâm trạng đùa vui, nô nức của tác giả trước giai điệu của mùa xuân. Tiếng chim hót trong trẻo, vang lừng xa như gần lại rõ ràng, tròn trịa kết thành những giọt sương óng ánh sắc màu đọng lại thành giọt long lanh rơi, rơi mãi. Nhà thơ đã tưởng tượng bằng tất cả rung động của tâm hồn “tôi đưa tay tôi hứng” người đang hứng những tiếng chim hót cứ như là hứng những giọt mưa rơi. Từ tưởng tượng tác giả chuyển sang cảm giác thật tinh tế và tài hoa. Làm sao có thể hứng những âm thanh không hình dáng, kích thước ấy nhưng thật ra âm thạnh đó đã rót vào trái tim mẫn cảm với cuộc sống tinh tế với mọi âm thanh, sắc màu:
Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Đến đây, nhà thơ không còn cầm bút nữa mà đang ôm đàn, gõ phách hát bài ca mùa xuân, bài ca cuộc sống. Nhà thơ muốn hóa thân vào muôn loài vạn vật làm tươi đẹp rộn ràng cho cuộc sống: một tiếng chim hót trong buổi sáng mai bắt đầu một ngày mới; một nhành hoa tô điểm cho vườn hoa cuộc đời; một nốt trầm làm xao xuyến vạn trái tim. Tất cả đã thể hiện niềm khát khao sống, khát khao hiến dâng đến khôn cùng của tác giả. Điều đáng nói ở đây là khi sáng tác bài thơ, nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Trong cái tuổi đương xuân của đời người ấy có mấy ai chấp nhận được sự thật là mình sắp lìa khỏi cõi đời với phong thái yêu đời an nhiên giữa mùa xuân như thế.
Với Thanh Hải, không ai đoán trước được bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của ông sẽ tồn tại bao lâu nhưng ít ra trước khi ra đi, ông đã để lại cho độc giả một bài thơ yêu đời, hồn nhiên đến lạ và giữ lại trong ông một phong cách thơ bình dị, chân thành.
Xin cảm ơn mùa xuân, cảm ơn thi nhân đã để lại cho đời những vần thơ vượt thời gian làm ấm lòng độc giả trong những nỗi mưu sinh nhọc nhằn của cuộc sống.
Đề 5: Cảm nhận khổ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải.
Bài tham khảo
Gợi hứng thú từ thơ mùa xuân là một bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh. Nhà thơ viết:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
Từ khi mọc lên cho tới lúc xòe cánh phô màu tím biếc, hình như ta được chứng kiến sự sinh thành của bông hoa – tín hiệu mùa xuân. Rồi tín hiệu màu sắc được phụ hoạ thêm bởi tín hiệu âm thanh “vang trời” của những tiếng chim chiền chiện. Âm thanh đặc biệt của tiếng chim “mang một mảnh vườn của đất đai vườn tược” (Xuân Diệu) như được ngưng, được đọng thành từng giọt long lanh. Phải chăng đó chỉ là những gỉọt âm thanh, hay đó là những giọt mùa xuân. Khó mà phân biệt rạch ròi, nhưng màu tím biếc, những âm thanh náo nức rộn ràng và những giọt mưa – âm thanh long lanh đã báo hiệu rằng mùa xuân đến. Xuân của đất trời, của thiên nhiên đã đến. Khi ấy xuân của đất trời hoà với mùa xuân của con người hốì hả, xôn xao. Mùa xuân của hoa, của chim, nhưng mùa xuân còn của cây cỏ với màu sắc đặc trưng: màu xanh lộc biếc. Mùa xuân gắn liền với những con người vất vả gian lao nhất, nhưng họ cũng vinh quang nhất vì họ mang trên mình mùa xuân, họ làm ra mùa xuân.
Mùa xuân người cầm súng
Lộc dắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương lúa”
Chắc không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ chọn người cầm súng và người ra đồng. Vấn đề không phải chi vì họ vất vả nhất, mà vì họ đại diện cho hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước: sản xuất và chiến đấu – xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; họ còn là đại diện của tiền tuyến và hậu phương. Những người chiến đấu, những người sản xuất làm thành giai điệu chính trong bản hợp xướng mùa xuân. Mùa xuân lớn của đất trời, của dân tộc.
Nhưng điều làm nên nét độc đáo của bài thơ, làm cho nó không lẫn vào các bài thơ xuân vốn có một số lượng kỉ lục trong thơ ca xưa nay chính là mùa xuân nho nhỏ, mùa xuân riêng trong hai khổ thơ này:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ. dông cho đời
Dù lá tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
Nếu khi bắt đầu vào bài, nhà thơ xưng tôi (Từng giọt long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi hứng) thì ở đây tác giả đã chuyển sang xưng ta. Hoàn toàn không phải là sự ngẫu nhiên. Với chữ “ta” vừa là số ít lại vừa là số nhiều, tác giả có thể nói được cái riêng biệt, cụ thể, cá thể, đồng thời lại nói được cái khái quát, cái chung. Đây là tâm sư, là quan niêm, là phương châm sống và làm việc của nhà thơ, hay cũng là của những con người chân chính? Đây là ước vọng của một con người từ khi vào đời ở tuổi hai mươi cho đến khi sắp từ biệt cõi đời với mái đầu tóc bạc, hay cũng là ước vọng của mọi lớp người từ trẻ tới già? Nói chuyện riêng của mình và cũng là nói cho tất cả mọi người cứ tự nhiên như thế vì trước hết nhà thơ đã làm một nốt trầm, làm mùa xuân nho nhỏ rất khiêm nhường; tác giả đã “Đứng vào điều cao thượng của cả một nhân loại vô danh” (Vũ Quần Phương).
Song khổ thơ cuối cùng này, dù vẫn xưng “ta” nhưng chữ ta này đã mang nhiều màu sắc riêng, tâm sự riêng của nhà thơ. Nếu chúng ta biết được rằng bài thơ được viết trong những ngày nhà thơ ốm nặng và ít lâu sau tác giả qua đời, chúng ta càng yêu quý tiếng hát của Thanh Hải.
Phải yêu đời lắm, lạc quan lắm mới hát lên được. Trong điệu dân ca xứ Huế, nước non ngàn dặm, thật bát ngát, mênh mông. Nhưng khi con người suốt đời nguyện làm mùa xuân nho nhỏ, làm một nốt trầm, thì nhà thơ có thể hát, và nốt trầm xao xuyến ấy sẽ còn mãi mãi trong nhịp phách tiền của khúc hát quê hương, sẽ trải mãi tình theo nước non ngàn dặm