Trọn Bộ Nghị Luận Văn Học Tác Phẩm “Nói Với Con” Y Phương

Toàn bộ các dạng bài nghị luận văn học “Nói Với Con” Y Phương lớp 9 ôn thi lớp 10 dễ dàng và đầy đủ theo hệ thống ôn tập và tự học chi tiết.

TRỌN BỘ BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC “NÓI VỚI CON” Y PHƯƠNG LỚP 9

Đề bài 1: Cảm nhận về vẻ đẹp của người đồng mình qua bài thơ “Nói với con”(Y Phương).

Dàn ý chi tiết:

  1. Mở bài:

– Là nhà thơ dân tộc Tày, thơ Y Phương thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.

– Ra đời năm 1980, “Nói với con” là một trong những bài thơ hay nhất của ông.

– Mượn lời tâm sự với con, Y Phương đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc về những đức tính tốt đẹp của “người đồng mình” – của con người quê hương miền núi.

  1. Thân bài:

Khái quát ( Dẫn dắt vào bài):

– Tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Y Phương, bài thơ “Nói với con” gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi người – gia đình và quê hương – đó là nôi êm tổ ấm nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn con – đó là cội nguồn của hạnh phúc. Để rồi từ trong những ngọt ngào của kỉ niệm quê hương, người cha nói với con những đức tính tốt đẹp của người đồng mình.

  1. Phân tích, cảm nhận những vẻ đẹp ( đức tính tốt đẹp ) của người đồng mình:
  1. Người đồng mình đáng yêu bởi sự giản dị và tài hoa:

– Trên quê hương thơ mộng nghĩa tình, người đồng mình hiện lên trong cuộc sống lao động cần cù mà tươi vui:

“Người đồng mình yêu lắm, con ơi!

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát”.

+ Giọng thơ vang lên đầy thiết tha và tự hào. “Người đồng mình” là người bản mình, người quê mình – Y Phương có cách gọi rất độc đáo, rất gần gũi và thân thương về những con người quê hương.

+ Với hình thức câu cảm thán, người đọc cảm nhận lời tâm tình được cất lên tự đáy lòng thương mến của người cha về người đồng mình.

  • Họ đáng yêu bởi họ là những con người yêu lao động. Với đôi bàn tay tài hoa, khéo léo, họ đã “đan”, “cài”, “ken”… cuộc sống như nở hoa dưới đôi bàn tay cần cù, sáng tạo của họ…

=> Chỉ với những câu thơ ngắn gọn, nhà thơ giúp ta hình dung được hình ảnh đáng yêu của người đồng mình giữa núi rừng thơ mộng, hiền hòa. Vẻ đẹp của họ được gợi ra từ cuộc sống lao động bình dị, từ bàn tay tài hoa và khối óc sáng tạo. Họ có niềm vui giản dị, tinh tế ngay trong cuộc sống mộc mạc đời thường.

  1. Người đồng mình biết lo toan và giàu mơ ước.

– Người đồng mình không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước:

“Người đồng mình thương lắm con ơi!

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chi lớn”.

  • Với cách nói “Người đồng mình thương lắm con ơi!” người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua.
  • Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương đã lấy cái cao vời vợi của trời để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo ý chí con người.
  • Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ.

=> Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc.

  1. Người đồng mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn:

“Sống trên đá không chê đá gập gềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc”.

  • Phép liệt kê với những hỉnh ảnh ẩn dụ “đá gập gềnh”,“thung nghèo đói” -> gợi cuộc sống đói nghèo, khó khăn, cực nhọc.
  • Vận dụng thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh”, ý thơ gợi bao nỗi vất vả, lam lũ.

-> Những câu thơ dài ngắn, cùng những thanh trắc tạo ấn tượng về cuộc sống trắc trở, gian nan, đói nghèo của quê hương.

  • Điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu cùng hình ảnh đối xứng đã nhấn mạnh: người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không thiếu ý chí và quyết tâm. hocvanlop9 Người đồng mình chấp nhận và thủy chung gắn bó cùng quê hương, dẫu quê hương có đói nghèo, vất vả. Và phải chăng, chính cuộc sống nhọc nhằn, đầy vất vả khổ đau ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê hương sẽ tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả.
  • Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí

của người đồng mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sông trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.

  1. Người đồng mình có ý thức tự lập, tự cường và tinh thần tự tôn dân tộc:

– Phẩm chất của người của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất đúng với người miền núi:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”

  • Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình.
  • Cụm từ “thô sơ da thịt” là cách nói cụ thể về những con người mộc mạc, giản dị.
  • Cụm từ “chẳng nhỏ bé” khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách và niềm tin.

-> Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí.

– Cùng với ý thức tự lực, tự cường, người đồng mình còn ngời sáng tinh thần tự tôn dân tộc và khát vọng xây dựng quê hương:

“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục”.

  • Lối nói đậm ngôn ngữ dân tộc – độc đáo mà vẫn chứa đựng ý vị sâu xa.
  • Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực ( chỉ truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi),vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Người đồng mình đã tự tay xây dựng nên truyền thống quê hương đẹp giàu, sánh tầm với các miền quê khác trên mảnh đất hình chữ S thân yêu.
  • Câu thơ ngầm chứa niềm tự hào kiêu hãnh bởi họ vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.
  1. Nhận xét, đánh giá:

Với thể thơ tự do, giọng điệu khỏe khoắn vừa tâm tình tha thiết vừa chứa chan hi vọng cùng những hình ảnh, từ ngữ mộc mạc, cụ thể -> nhà thơ nói với con về những vẻ đẹp của người đồng mình để rồi từ đó truyền cho con lòng tự hào về quê hương,dân tộc, nhắn nhủ con biết sống đẹp, biết vượt qua gian khó bằng niềm tin, ý chí như người đồng mình.

III. Kết bài:

Qua lời thủ thỉ, tâm tình của người cha đối với con, hình ảnh của quê hương, của người đồng mình hiện lên thật chân thực, cụ thể với bao phẩm chất tốt đẹp. Đó là mạch suối ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn và ý chí cho con. Đọc bài thơ, hiểu về vẻ đẹp của những con người quê hương, ta yêu hơn, trân trọng hơn những con người làm giàu đẹp quê hương, đất nước.

Bài Tham Khảo 1:

Y Phương là một trong số ít những nhà thơ miền núi có những gắn bó lâu dài với hoạt động văn hóa nghệ thuật đến như vậy. Với một phong cách thơ hồn nhiên, trong sáng, chân thật và cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi, Y Phương đã có những đóng góp không nhỏ cho nền thơ ca hiện đại Việt Nam ở thế kỉ XX. Một trong những bài thơ gây được tiếng vang lớn trong sự nghiệp cầm bút của ông, in sâu trong tâm trí độc giả đó là thi phẩm “Nói với con” (1980). Bài thơ là lời tâm tình thủ thỉ và niềm hi vọng của người cha dành cho con, mong con khôn lớn, thành người, phát huy những nét đẹp vốn có của quê hương, dân tộc mình. Qua bài thơ, Y Phương đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó quên về những phẩm chất tốt đẹp của “người đồng mình”.

Trước hết, “người đồng mình” hiện lên là những con người tài hoa, khéo léo trong công việc lao động tươi vui:

Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng.

“Người đồng mình” là để chỉ những người vùng mình, miền mình, những người cùng sống trên một miền đất, quê hương, cùng dân tộc. Câu thơ sử dụng từ ngữ hô gọi “con ơi” kết hợp với từ tình thái “yêu lắm” ( “yêu lắm” là cụm tính từ/ Tình thái từ là những từ thêm vào câu để tạo câu theo mục đích nói: à, ư, hả, hử, chứ, chăng, hãy, đừng chớ, … và dùng biểu lộ tình cảm của người nói) làm cho lời thơ trở nên ngọt ngào, chan chứa niềm tự hào với tình yêu thương quê hương da diết. Cuộc sống lao động cần cù và vui tươi của “người đồng mình” được gợi lên qua một số những hình ảnh rất cụ thể, giàu sức gợi: “đan lờ” – dụng cụ đánh bắt cá của người dân miền núi, dưới bàn tay khéo léo đã thành “cài nan hoa”; những ngôi nhà sàn không chỉ được dựng lên bằng những tấm ván gỗ mà còn được tạo nên bởi những “câu hát” – chiều văn hóa, lối sống của “người đồng mình”. Những động từ “đan”, “cài”, “ken” vừa có tác dụng diễn tả những động tác lao động; lại vừa cho thấy những

phẩm chất cần cù, chịu khó, yêu lao động, yêu cuộc sống, chan chứa niềm vui của những bàn tay khéo léo, tài hoa của người dân miền núi. Đồng thời, cũng dưới khối óc, bàn tay chăm chỉ, chịu thương, chịu khó của “người đồng mình”, họ đã biến những khu rừng đất trống đồi núi trọc thành nơi cư trú tuyệt vời. Vì thế, rừng núi không chỉ cho măng, cho nứa, cho gỗ mà còn ban tặng cho con người cả những sản phẩm tinh túy nhất của trời và đất đó là những bông hoa tươi thắm rực rỡ sắc màu. Họ khai hoang, lập làng, lập bản, tạo ra những cung đường đi ra thung ra suối, con đường vào làng vào bản, con đường tới trường, tới lớp, con đường ra ruộng, ra đồng… Chính những con đường đó đã được dựng xây lên bởi những “tấm lòng” bao dung, nhân hậu, gắn bó tình đoàn kết của những con người nơi đây.

Có thể nói, bằng đoạn thơ ngắn gọn với những hình ảnh cụ thể, chân thực, giàu sức khái quát, Y Phương đã làm nổi hình, nổi sắc những bàn tay khéo léo tài hoa trong cuộc sống lao động tươi vui, tràn ngập tình yêu cuộc sống của “người đồng mình”. Thiên nhiên và con người rừng núi hài hòa, gắn bó lẫn nhau trong một cuộc sống thanh bình, yên ả, thơ mộng, hiền hòa.

“Người đồng mình” không chỉ là những con người tài hoa, khéo léo mà còn là những con người biết lo toan và rất giàu niềm tìn, ý chí, nghị lực trong cuộc sống:

Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Câu thơ đầu được điệp lại “Người đồng minh thương lắm con ơi” nhưng đã có sự thay đổi chút ít. Nếu như câu thơ ở khổ đầu là “yêu” tức là xuất phát từ tình cảm chân thành, từ trái tim tha thiết thì đến câu thơ ở khổ hai này lại là: “thương”. “Thương” là một trạng thái tình cảm không chỉ xuất phát từ trái tim yêu thương chân thành nữa mà còn gói gém cả sự sẻ chia, đồng cảm ở trong lòng. Chính vì thế, “người đồng mình” – những con người cùng miền đất, quê hương, dân tộc cùng chí hướng đã đoàn kết, gắn bó, sẻ chia và đồng cảm với nhau mà dựng xây quê hương mình trở nên ngày một giàu đẹp hơn. Với nghệ thuật đối lập tương phản: ” cao đo – xa nuôi”, “nỗi buồn – chí lớn”, Y Phương đã diễn tả những trạng thái khác nhau của “người đồng mình”. “Nỗi buồn – chí lớn” là khái niệm vô hình nhưng đã được tác giả hình dung cụ thể như có hình, có khối. “Người đồng minh” buồn, lo lắng, khắc khoải ở trong lòng vì trước mắt họ là biết bao nhiêu là khó khăn, gian nan thử thách; khi mà cả quê hương họ còn chưa vươn tới được tầm cao nhân văn, vẫn còn quanh quẩn với cái đói, cái nghèo. Nhưng “Người đồng mình” không bao giờ nhụt chí, mà luôn mạnh mẽ, vững vàng đối diễn với những khó khăn, thách thức ấy, đưa quê hương tiến lên phía trước, trở nên giàu mạnh, phát triển, văn mình. Câu thơ giản dị , mộc mạc, chân chất những đã diễn tả được tinh thần, ý chí quật cường, mạnh mẽ của người dân vùng cao.

Đối diện với nhiều khó khăn, thử thách nhưng “người đồng mình” vẫn luôn nguyện gắn bó, thủy chung, một lòng với quê hương, dân tộc mình: Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc.

Nhà thơ đã sử dụng rất nhiều những hình ảnh để nói tới cuộc sống của người miền núi như: “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói”, “lên thác xuống ghềnh” có ý nghĩa diễn tả những khó khăn, vất vả, nghèo đói và nhọc nhằn mà họ đã và đang phải đương đầu. Điệp ngữ “sống … không chê” (2 lần), kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập và biện pháp so sánh “như sông như suối” có tác dụng diễn tả sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, bền bỉ của những người con miền núi cao trước cuộc sống khó khăn, vất vả khi mà chiến tranh lùi xa không được bao lâu. Qua đó, nhà thơ thể hiện niềm tự hào về “người đồng mình” với sức mạnh, ý chí thật phóng khoáng, đoàn kết, gắn bó thiết tha của họ đối với nơi chôn rau cắt rốn của mình.

Không dừng lại ở đó, “người đồng mình” còn hiện lên là những con người bản lĩnh, mạnh mẽ, giàu nghị lực sống và luôn mang trong mình lòng tự tôn dân tộc với khát vọng dựng xây đất nước: Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.

Nghệ thuật đối lập tương phản: giữa ngoại hình và tâm hồn. Hình ảnh “thô sơ da thịt” diễn tả vẻ đẹp mộc mạc, bình dị, chân chất, khẳng khái của “người đồng mình”. Nhưng họ không hề “nhỏ bé” về tâm hồn mà ngược lại rất giàu lòng tự trọng, giàu chí khí, niềm tin cao đẹp với khát vọng dựng xây, phát triển quê hương. Muốn vậy, “người đồng mình” phải lao động:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.

Câu thơ có hai lớp nghĩa tả thực và ẩn dụ. Và tác giả đã miêu tả cuộc sống lao động của họ qua cụm từ “tự đục đá” thường thấy của người dân miền núi cao. Công việc của họ rất vất vả, nặng nhọc nhưng họ sẵn sàng tự nguyện làm vì sự phát triển của quê hương mình. Nhưng hình ảnh “kê cao quê hương” còn là hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng cho lòng tự hào, tự tôn dân tộc của “người đồng mình”. Chính những con người cần cù, nhẫn nại, bằng đôi tay lao động của mình đã làm nên quê hương, làm nên phong tục tập quán lâu đời tốt đẹp của dân tộc mình.

Tóm lại, với cách tư duy diễn đạt giàu hình ảnh của người miền núi, kết hợp với hình thức tâm tình, trò chuyện nhẹ nhàng của người cha, Y Phương đã làm nổi bật lên những vẻ đẹp về ngoại hình và phẩm chất của những người con miền núi. Đó là những con người khéo léo, tài hoa và luôn có ý thức, trách nhiệm công dân cao độ đối trong công cuộc dựng xây, phát triển quê hương, đất nước. Khép lại trang thơ, người đọc không chỉ thấy được chất Tày thấm đượm trong từng câu chữ, hình ảnh mà còn thấy được cả sức sống và vẻ đẹp dịêu kì của người dân miền núi. Qua đó, chúng ta thấy được tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ Y Phương đối với dân tộc mình.

Đề 2: CẢM NHẬN TÌNH CHA CON TRONG BÀI NÓI VỚI CON (Y PHƯƠNG)

Dàn ý chi tiết:

  1. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Y Phương: là một nhà thơ dân tộc sinh ra ở vùng đất nổi tiếng có truyền thống cách mạng Cao Bằng.

– Giới thiệu tác phẩm “Nói với con”: là bài thơ đặc sắc nhất gợi cảm nhiều nhất của Y Phương.

  1. Thân bài

– Khái quát nội dung của bài thơ: Xuyên suốt bài thơ là nguồn cảm hứng, tình cảm thiêng liêng tình phụ tử, còn song song với tình cảm yêu quê hương đất nước. Bài thơ cho ta thấy cái nhìn nhân văn, cao cả của tác giả qua cách giáo dục con mình.

– Bút pháp nghệ thuật của tác giả:

Sử dụng những ngôn ngữ mộc mạc giản dị, nhưng có sức gợi hơn bất kỳ một thủ pháp nghệ thuật cao siêu nào.

Những lời thơ của tác giả cũng như chính cái bụng, con người tác giả cũng giống như bao con người dân tộc khác sống ngay thẳng, kiên trung, kiên cường và gắn bó với núi non quê hương đất nước.

Trong khổ thơ đầu tiên Y Phương viết:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói,

Hai bước tới tiếng cười

– Ý nghĩa của hình ảnh gia đình trong khổ thơ này: Y Phương đã vẽ ra một ngôi nhà hạnh phúc nhất, nơi mà đứa trẻ sinh ra được nhận đầy đủ tình yêu thương của người cha, người mẹ. Mái ấm gia đình là chiếc nôi đầu tiên mà một em bé cần có. Chiếc nôi này sẽ chấp cánh cho con những giấc ngủ ngon, với những ước mơ đẹp, nuôi dưỡng tâm hồn con khi trưởng thành.

– Trong khổ thơ thứ hai tác giả bắt đầu dạy con mình những bài học đầu tiên về truyền thống của quê hương mình, gợi cho con về tình yêu sự gắn bó với tổ tiên, đồng bào

– Giá trị nhân văn trong những câu thơ của tác giả: Tác giả muốn con không được quên những tinh hoa truyền thống lâu đời của những người dân tộc. Nó chính là bản sắc văn hóa, là tiếng nói riêng của mỗi vùng miền, nên con phải giữ lấy, nhớ lấy và đừng bao giờ đánh mất nghe con:

– Tác giả gợi nhớ cho con mình về những kỷ niệm ngọt ngào, về cha mẹ, có cha mẹ thì mới có con hôm nay. Tác giả muốn con mình hãy nhớ ơn sinh thành dưỡng dục, nhớ ân nghĩa tình làng xóm. Cha mẹ nào cũng muốn con cái mình hãy sống xứng đáng với những truyền thống tốt đẹp mà dân làng tổ tiên ban tặng. Muốn con mình sau này sẽ có ích có sự đóng góp cho sự phát triển của quê hương, dân tộc mình.

– Tác giả muốn dạy con mình cách sống hiên ngang, kiên cường, vượt lên trên số phận. Trong đường đời nhiều gập ghềnh sỏi đá, nhiều cám dỗ, khiến con vấp ngã trong những lúc như vậy tác giả muốn con mình hãy bền lòng, vững chí kiên cường anh dũng bước qua, đứng lên để trưởng thành hơn, để xứng đáng với truyền thống lâu đời mà người dân quê mình vẫn có.

Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục

– Phân tích tính nghệ thuật và giá trị nhân văn trong những câu thơ của tác giả: Trong những câu thơ trên giọng điệu tha thiết, nhưng lại chất chứa sự uy nghi quyền lực tác giả muốn răn dạy cho con. Tác giả là một người cha muốn khuyên nhủ con trai mình những điều sâu sắc nhất về giá trị làm người, giá trị đạo đức, những chuẩn mực xã hội mà con cần phải nhớ khi trưởng thành.

III. Kết bài

– Nêu lên cảm nghĩ của bản thân về bài thơ?

Ví dụ: Bài thơ “Nói với con” đi vào trong lòng người đọc bởi sự dịu dàng, nhưng nhiều triết lý sâu sắc, bởi tình yêu âm thầm nhưng mãnh liệt của tình cha dành cho con. Bằng những lời thơ giản dị của mình nhưng tác giả Y Phương đã đưa chúng từ chỗ là một đứa trẻ nằm trong nôi chưa hiểu sự đời tới chỗ hiểu biết những điều hay lẽ phải trong cuộc sống, từ chỗ ngu ngơ mới tập đi tới chỗ có ý chí kiên cường hiên ngang vượt qua sóng gió, biết phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình để làm người.

Bài Tham Khảo 1:

Tình cảm gia đình luôn được coi là một trong những nguồn cảm hứng mãnh liệt dạt dào nhất cho thơ ca. Trong đó những bài thơ ca ngợi về tình mẫu tử thiêng liêng, phụ tử quý báu. Tìm bài thơ tình mẫu tử không khó nhưng để nói hay nói đúng về tình phụ tử thì có lẽ chỉ có bài thơ “Nói với con” của tác giả Y Phương là thể hiện vô cùng trọn vẹn. Tác giả đã khéo léo đan cài tình cảm gia đình vào trong tình yêu nước yêu dân tộc để dạy dỗ con nên người.

Tình cảm gia đình luôn là thứ sức mạnh lớn lao nhất mà mỗi con người có được. Nó vừa là động lực vừa là thứ vũ khí sắc bén nhất để đưa chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Cảm nhận đầu tiên về bài thơ này đó chính là hình ảnh đứa con lớn lên trong tình yêu thương sự đùm bọc chở che và chờ mong của cha mẹ.

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

Ít nhiều những hình ảnh này đã gợi nên trong tâm trí chúng ta cả một trời kí ức mộng mơ. Đó là hình ảnh đứa trẻ bi bô tập nói và lững chững bước những bước đầu tiên trong cuộc đời trong sự chờ mong khắc khoải của cha mẹ. Có ai đó đã từng nói rằng gia đình chính là chiếc nôi êm ái và quý giá nhất để nâng bước con vào đời. Thế nhưng không chỉ có gia đình mới là chiếc nôi nuôi nấng con mà nó còn được gắn chặt với tình cảm của quê hương trong cuộc sống khốn khó mà ân tình của người dân lao động:

Người đồng mình yêu lắm con ơi

………..tấm lòng

đây ta thấy có sự xuất hiện của cụm từ Người đồng mình. Vậy thì người đồng mình là ai? Đó là một cách nói mang đậm nét đặc trưng địa phương của đồng bào miền núi. Ý chỉ những người đồng bào cùng chung một xuất xứ, một quê hương bản quán và một dân tộc. Tác giả đã vận dụng vô cùng khéo léo cách nói của người dân tộc miền núi vào ý thơ. Hầu hết những suy nghĩ đều được miêu tả chân thực qua từng câu chữ. Đan lờ bắt cá, bàn tay khéo léo của người dân lao động đã tạo nên những nan hoa. Vách nhà tạo nên từ những câu hát,…. Rừng ở đây

không chỉ cho gỗ quý cho lâm sản quý hiếm mà còn cho cả những bông hoa khoe sắc đẹp cho đời. Sự lao động miệt mài đó đã mang đến cho con người biết bao nhiêu điều tốt đẹp. Con đường không chỉ là nơi in dấu những bước chân xuôi ngược là nơi đi lại mà nó chính là hành trình nuôi nấng con khôn lớn.

Đến đây nhà thơ đã chuyển mạch thơ sang suy ngẫm về cội nguồn về hạnh phúc quê hương bản xứ:

Cha mẹ…

… trên đời

Không chỉ cho con biết về cội nguồn của sinh dưỡng mà ở đây người cha còn muốn răn dạy con cả về những đức tính tốt đẹp của “người đồng mình” đồng thời còn gửi gắm cả những ước mơ vĩ đại vào thế hệ con mai sau. Đó chính là tình yêu lao động hăng say là sức sống bền bỉ vượt lên mọi hoàn cảnh thử thách mọi khó khăn gian khổ:

Người đồng mình thương lắm con ơi

Không lo cực nhọc

đây mạch thơ trở nên dồn dập nhanh hơn như một bài ca để răn dạy con những điều quý giá về cách sống và cách làm người. Đầu tiên đó chính là bài học về sự đoàn kết tinh thần tương thân tương ái mãnh liệt. Sự yêu thương đùm bọc chính là sức mạnh để giúp người đồng mình vượt qua biết bao nhiêu gian nan thử thách trong cuộc đời. những câu thơ đối xứng nhau như “cao đo nỗi buồn/ xa nuôi chí lớn” thể hiện thật dứt khoát thật mạnh mẽ những ý chí sắt đá của dân tộc mình.

Cuộc sống có thể vất vả có thể nghèo đói tuy nhiên con người luôn luôn tự hào và gắn bó với mảnh đất quê hương của mình. Và cuối cùng người cha muốn gửi gắm đến người con của mình dù có ở bất cứ đâu, làm bất cứ điều gì thì phải luôn biết nhớ về quê hương. Biết vượt qua mọi cam go thử thách trong cuộc sống bằng ý chí và niềm tin mãnh liệt. Không được chê bai và phản bội quê hương. Đoạn thơ lặp đi lặp lại bởi tiết tấu nhanh mạnh, dứt khoát, cứng rắn và dồn dập bởi những điệp từ, điệp ngũ và cấu trúc linh hoạt lay động trái tim của bất cứ ai nghe.

Có thể nói bài thơ “Nói với con” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất nói về tình phụ tử thiêng liêng mà cao quý trên đời. Nó như một chất men ủ càng lâu càng ngọt, càng lâu càng thấm. Tình cảm gia đình chính là thứ tình cảm vô cùng cao quý và thiêng liêng song hành cùng với tình yêu của đất nước, của quê hương. Nó chính là thứ động lực mãnh liệt để vun đắp và nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người.

Bài Tham Khảo 2:

Ca dao từng có câu: “Công cha như núi Thái Sơn”. Có phải vì vậy mà người cha luôn khao khát những đứa con có được sự vững vàng, rắn rỏi mạnh mẽ trên đường đời. Qua bài thơ Nói với con của Y Phương, người đọc nhận thấy tình cảm và mong ước của một người cha như vậy dành cho con, một thứ tình cảm nồng ấm và thiêng liêng, giản dị. Bài thơ đồng thời cũng gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về trách nhiệm của người làm con.

Mượn lời một người cha nói với con, bài thơ gợi về cội nguồn của mỗi con người, đồng thời bộc lộ niềm tự hào trước sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình. Nhà thơ đã mở rộng từ tình cảm gia đình đến tình cảm quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống.

Mở đầu bài thơ bằng những hình ảnh cụ thể, Y Phương đã tạo được không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt. Từng bước đi, từng tiếng nói tiếng cười của con được cha mẹ mừng vui đón nhận:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

Những câu thơ có cách diễn đạt thật độc đáọ đã cho thấy tình yêu thương của cha mẹ đối với con. Con lớn lên hàng ngày trong tình yêu thương ấy, trong sự nâng niu, mong chờ của cha mẹ.

Không chỉ có tình yêu thương của cha mẹ, thời gian trôi qua, con trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. Đó là cuộc sống của những “người đồng mình”, rất cần cù và tươi vui:

“Người đồng mình thương lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”.

Những từ ngữ giàu sắc thái biểu hiện: Cài nan hoa, ken câu hát,… đã miêu tả cụ thể cuộc sống ấy đồng thời thể hiện tình cảm gắn bó, quấn quýt của con người quê hương. Rừng núi quê hương thơ mộng và trữ tình cũng là một trong những yếu tố nuôi con khôn lớn, nâng đỡ tâm hồn con. Thiên nhiên với những sông, suối, ghềnh, thác… đã nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống: “Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng”. Cách gọi “người đồng mình” đặc biệt gần gũi, thân thiết và gắn bó như gợi niềm ruột thịt yêu thương.

Không chỉ gợi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của “người đồng mình”. Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ:

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn”.

Dùng những từ ngữ rất mạnh mẽ như “cao”, “xa”, “lớn”, tác giả muốn nhấn mạnh cuộc sống khoáng đạt, mạnh mẽ của những “người đồng mình”. Dù khó khăn, đói nghèo còn nhiều nhưng họ không nhụt chí, ý chí của họ vẫn rất vững chắc, kiên cường:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì là phong tục”

Những “người đồng mình” vượt qua vất vả để bám trụ lấy quê hương. Bằng cuộc sống lao động không mệt mỏi, họ xây dựng quê hương với những truyền thống cao đẹp. Những “người đồng mình” mộc mạc, thẳng thắn nhưng giàu chí khí, niềm tin…Người cha đã kể với con về quê hương với cảm xúc rất tự hào.

Tình cảm của người cha dành cho con rất thiết tha, trìu mến. Tình cảm này bộc lộ tự nhiên, chân thực qua những lời nhắn gửi của cha cho cọn. Người cha muốn con sống phải có nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương, biết chấp nhận những khó khăn, vất vả để có thể:

“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”

Người cha mong cho con mình sống ngay thẳng, trong sạch, sống với ý chí, niềm tin để vững vàng vượt qua mọi thử thách khó khăn. Người cha mong cho con sống phải luôn tin vào khả năng của mình, tin tưởng vào bản thân. Có như vậy, con mới có thể thành công, mới không thua kém ai cả Người cha đã nói với con bằng tất cả lòng yêu thương của mình, nói với con những điều từ đáy lòng mình. Điều lớn nhất người cha đã truyền dạy cho con chính là niềm tự tin vào bản thân và lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống của quê hương.

Qua những lời người cha nói với con, có thể thấy tình cảm của người cha đối với con thật trìu mến, thiết tha và tin tưởng. Điều lớn lao nhất mà người cha muốn nói với con chính là niềm tự hào với sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương và niềm tin khi bước vào đời.

Bài thơ đã gợi cho người đọc những niềm cảm động sâu xa và những suy nghĩ sâu sắc. Thì ra, đằng sau những lặng lẽ, thâm trầm của cha là biết bao yêu thương, biết bao mong mỏi, biết bao hi vọng, biết bao đợi chờ … Con lớn lên như hôm nay không chỉ nhờ vào cơm ăn và áo mặc mà còn mang nặng ân tình của những lời dạy dỗ ân cần thấm thía. Quả là:

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Vậy thì, là người làm con, con xin nguyện:

“Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Chẳng những vậy, con sẽ bước theo những bước chân vững chắc mà cha để lại trên con đường cha bước đến đỉnh Thái Sơn – nguyện “sống như sông như suối”, nguyện ngẩng cao đầu “lên đường” mà không “thô sơ da thịt”. Và trên con đường ấy, con sẽ mang theo hình ảnh quê hương để tiếp tục nối tiếp cha anh “tự đục đá kê cao quê hương” thân thiết của mình.

Bài thơ có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật, tuy nhiên, độc đáo nhất và đặc sắc nhất là cách thể hiện, diễn tả tình cảm. Những từ ngữ, hình ảnh trong bài rất mộc mạc nhưng đồng thời cũng rất giàu hình ảnh gợi tả vừa cụ thể vừa có sức khái quát cao.

Bài thơ nhắc nhở chúng ta về tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương, của dân tộc. Qua lời nói với con, ta phần nào hiểu rõ hơn, cảm nhận sâu sắc hơn những tình cảm của người cha dành cho con. Những bài học mà người cha trong bài thơ Nói với con có lẽ là những bài học mà bất kỳ người cha nào cũng muốn dạy cho con mình. Và những bài học giản dị, mộc mạc đó có lẽ sẽ theo con suốt trên chặng đường đời, bài học của cha – bài học đầy ý nghĩa sâu sắc.

5/5 - (1 bình chọn)